Giao dịch tại ngân hàng. (Ảnh: Trần Việt/TTXVN)
 

Cần có chiến lược rõ ràng để tái cơ cấu

Điểm nổi bật trong những năm gần đây qua góc nhìn của ông Sanjay Kalra là sau gần 3 năm thực hiện, tái cơ cấu ngân hàng đã đạt được một số thành quả. Rủi ro hệ thống trong khu vực ngân hàng đã giảm và được kiềm chế, thanh khoản đã được cải thiện đáng kể, lãi suất giảm và nhiều biện pháp đã được thực hiện để giảm và xử lý nợ xấu.

Việc sáp nhập một số ngân hàng đã diễn ra hay đã được lên kế hoạch thực hiện trong năm 2015 và điều này giúp giảm gánh nặng quản lý hành chính đối với Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, trong khi việc sáp nhập các ngân hàng yếu kém chỉ giúp giải quyết các vấn đề trước mắt, Chính phủ vẫn cần có một chiến lược toàn diện cụ thể và rõ ràng để tái cơ cấu ngân hàng. Những kế hoạch này cần dựa trên kết quả thanh tra tại chỗ kỹ lưỡng, qua đó cho thấy mức độ nợ xấu thực sự và nhu cầu cấp vốn bổ sung của ngân hàng.

“Các kế hoạch này cần phân biệt rõ ngân hàng mất khả năng thanh toán và ngân hàng mất khả năng thanh khoản, buộc các cổ đông hiện tại phải gánh chịu tổn thất trước khi được bơm vốn mới và xử lý nợ xấu. Sáng kiến của Ngân hàng Nhà nước mua lại hai ngân hàng yếu kém (OceanBank và VNCB) là đáng hoan nghênh, nhưng đây chỉ nên là bước đi đầu tiên hướng đến khuôn khổ phù hợp về thanh lý và phá sản ngân hàng, thông qua đó nguyên tắc kỷ luật thị trường được tăng cường đối với cả cổ đông và người gửi tiền,” ông Sanjay Kalra phân tích.

Theo Trưởng đại diện IMF, cần phải có nguồn tiền từ ngân sách cho chi phí cấp vốn bổ sung cho ngân hàng (tái cơ cấu và cải cách doanh nghiệp nhà nước, bao gồm cả giải quyết hậu quả của lao động dư thừa có thể phát sinh). Kinh nghiệm quốc tế cho thấy cải cách ngân hàng thường liên quan đến các nghĩa vụ nợ dự phòng đáng kể mà cuối cùng ngân sách cũng phải gánh chịu. Điều này đặc biệt đúng trong trường hợp các ngân hàng thương mại nhà nước.

Ông Sanjay Kalra cũng đề cập đến một mối quan hệ có ảnh hưởng lớn tới hoạt động của các ngân hàng thương mại. Đó là một tỷ lệ đáng kể dư nợ của khu vực ngân hàng là cho các tập đoàn kinh tế và doanh nghiệp nhà nước.

Theo đó, vấn đề của hệ thống ngân hàng không thể giải quyết được nếu không giải quyết các vấn đề của khách hàng vay ngân hàng. Do vậy, cải cách các tập đoàn kinh tế và doanh nghiệp nhà nước có ý nghĩa quan trọng.

“Bước đi đầu tiên là phải công bố ra công chúng tình trạng tài chính thực của các tập đoàn kinh tế và doanh nghiệp nhà nước, bao gồm cả bảng cân đối tài sản và báo cáo tài chính đã được kiểm toán và tình trạng vay nợ hệ thống ngân hàng. Các doanh nghiệp này sử dụng tiền từ nguồn lực công để hoạt động, do vậy công chúng cần được thông báo về hoạt động của họ,” đại diện IMF khuyến nghị.

VAMC đẩy mạnh tốc độ mua nợ xấu

Theo ông Sanjay Kalra, việc đưa Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng (VAMC) đi vào hoạt động năm 2013 là biện pháp ban đầu quan trọng để ghi nhận là nợ xấu trong hệ thống ngân hàng cần một cách tiếp cận mang tính hệ thống.

Sau khi đi vào hoạt động, VAMC đã tích cực mua nợ xấu của ngân hàng nhưng tốc độ mua nợ cần được đẩy nhanh hơn nữa. Các ngân hàng có thêm thời gian để trích lập dự phòng cho các khoản nợ xấu được bán cho VAMC, trong khi đó vẫn còn nhiều vướng mắc pháp lý quan trọng cản trở việc chuyển giao quyền sở hữu khoản vay và tài sản thế chấp, và điều này gây cản trở quá trình xử lý nợ xấu.

Ông Sanjay Kalra đưa ra kiến nghị, để đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ xấu, VAMC cần có thẩm quyền lớn hơn trong việc xử lý tài sản đảm bảo và cần giải quyết những trở ngại pháp lý trong việc xử lý tài sản đảm bảo trên thị trường mua bán nợ xấu. VAMC cũng cần có nguồn lực lớn hơn, cả về tài chính và nhân lực, để xử lý nợ xấu trên thị trường mua bán nợ xấu. Thị trường này cần có đủ người mua và người bán để có thể hoạt động được và có thể cần có cả sự tham gia và kinh nghiệm của các đối tác nước ngoài. 

Một điểm đáng chú nữa được chuyên gia IMF đưa ra là Ngân hàng Nhà nước đã giảm lãi suất chính sách và các mức lãi suất khác trong hệ thống ngân hàng khi lạm phát giảm xuống. Điều này đã giúp giảm đáng kể chi phí vốn cho doanh nghiệp từ mức lãi suất rất cao năm 2011.

Ngoài ra, theo chuyên gia này, tỷ giá ổn định chính là cái neo danh nghĩa rất có giá trị giúp tăng cường lòng tin vào VND. Việc điều chỉnh tỷ giá ở mức nhỏ theo từng bước được tính toán kỹ đã giúp giữ tính cạnh tranh của đồng nội tệ.

Một vấn đề khác có liên quan theo ông Sanjay là cần phải tuyệt đối tránh sử dụng dự trữ ngoại hối để tài trợ cho đầu tư công, nên việc Ngân hàng Nhà nước rất không sẵn sàng đối với đề xuất này là có cơ sở vững chắc.

“Việt Nam vẫn cần tiếp tục tăng dự trữ ngoại hối để đảm bảo có vị thế vững chắc sẵn sàng ứng phó với các cú sốc từ bên ngoài. Trong trung hạn, tỷ giá linh hoạt hơn sẽ là yếu tố quan trọng giúp hấp thụ các cú sốc từ bên ngoài và biến động toàn cầu,” ông Sanjay Kalra nhấn mạnh./.

Thúy Hà (Vietnam+)